Lịch sử Texas

Thời kỳ tiền Âu

Texas nằm giữa hai phạm vi văn hóa lớn của Bắc Mỹ thời kỳ tiền Columbus: Tây Nam và Bình nguyên. Các nhà khảo cổ học phát hiện thấy ba nền văn hóa bản địa lớn tồn tại trên lãnh thổ này, và phát triển đến đỉnh cao trước khi có tiếp xúc đầu tiên với người Âu. Chúng là:[30]

  • Pueblo từ vùng thượng du Rio Grande, tập trung tại Tây Texas;
  • Văn hóa Mississippi, cũng gọi là Mound Builder, mở rộng dọc theo thung lũng sông Mississippi ở phía đông Texas;
  • Các nền văn minh Trung Bộ châu Mỹ, tập trung ở nam bộ Texas. Ảnh hưởng của Teotihuacan ở bắc bộ México đạt đỉnh vào khoảng năm 500 và suy yếu từ thế kỷ VIII đến X.

Không nền văn hóa nào chi phối tại khu vực nay là Texas, và khu vực có nhiều dân tộc cư trú.[30] Các bộ lạc người Mỹ bản địa sống trong biên giới Texas ngày nay gồm có Alabama, Apache, Atakapan, Bidai, Caddo, Coahuiltecan, Comanche, Choctaw, Coushatta, Hasinai, Jumano, Karankawa, Kickapoo, Kiowa, Tonkawa, và Wichita.[31][32] Tên gọi Texas bắt nguồn từ táyshaʔ, một từ trong tiếng Caddo để chỉ Liên minh Hasinai, có nghĩa là "bằng hữu" hoặc "đồng minh".[33][34][35][36][37]

Việc một bộ lạc thân thiện hay hiếu chiến có tính quyết định đối với số mệnh của những nhà thám hiểm và người định cư châu Âu trên vùng đất đó.[38] Các bộ lạc thân thiện dạy những người mới đến cách trồng trọt các cây trồng bản địa, chuẩn bị thức ăn, và săn bắn. Các bộ lạc hiếu chiến tiến hành các vụ tấn công và kháng cự những người mới đến, khiến cho cuộc sống của người Âu trở nên khó khăn và nguy hiểm.[39]

Thuộc địa hóa

Quốc kỳ của sáu quốc gia từng có chủ quyền một phần hoặc toàn bộ lãnh thổ Texas hiện nayTexas năm 1718, bản đồ của Guillaume de L'Isle.Stephen F. Austinempresario người Mỹ đầu tiên được cấp quyền khai thác một thuộc địa bên trong Texas thuộc México.

Văn bản lịch sử đầu tiên có liên hệ đến Texas là một bản đồ Duyên hải Vịnh México, do nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Alonso Álvarez de Pineda tạo ra vào năm 1519.[40][41] Chín năm sau đó, nhà thám hiểm bị đắm tàu người Tây Ban Nha Álvar Núñez Cabeza de Vaca và đội quân của ông trở thành những người Âu đầu tiên tại nơi mà nay là Texas.[42][43] Cabeza de Vaca ghi lại rằng vào năm 1528, khi người Tây Ban Nha đổ bộ lên khu vực, "một nửa số thổ dân chết vì một loại bệnh đường ruột và họ đổ lỗi cho chúng tôi."[44]

Francisco Vasquez de Coronado miêu tả cuộc chạm trán vào năm 1541 của ông với "Hai loại người đi quanh các bình nguyên này cùng những con bò; một được gọi là Querechos và dân tộc kia là Teyas; họ rất cường tráng, hóa trang, và là những kẻ thù của nhau. Họ không có khu định cư hay khu đất chuẩn bị sẵn mà chỉ đi vòng quanh cùng những con bò. Họ sát hại tất cả những thứ mà họ muốn, và thuộc da dùng để che thân và làm lều, và họ ăn thịt, thậm chí đôi khi là ăn sống, họ thậm chí cũng uống máu khi khát..."[45]

Các thế lực châu Âu bỏ qua khu vực này cho đến khi ngẫu nhiên định cư ở đây vào năm 1685. Các tính toán sai lầm của René Robert Cavelier de La Salle dẫn đến việc ông lập ra thuộc địa pháo đài Saint Louisvịnh Matagorda thay vì ở một nơi dọc theo sông Mississippi.[46] Thuộc địa này chỉ tồn tại trong bốn năm do không chống đỡ nổi trước điều kiện khắc nghiệt và các bộ lạc bản địa thù địch.[47]

Năm 1690, nhà cầm quyền Tây Ban Nha lo ngại rằng Pháp tạo ra mối đe dọa cạnh tranh, do vậy họ quyết định thành lập một số đoàn truyền giáo ở Đông Texas.[48] Sau khi người da đỏ kháng cự, những nhà truyền giáo người Tây Ban Nha trở về México.[49] Khi người Pháp bắt đầu định cư tại Louisiana, chủ yếu ở phần phía nam của tiểu bang này, chính quyền Tây Ban Nha vào năm 1716 phản ứng bằng cách hình thành một loạt các đoàn truyền giáo mới ở Đông Texas.[50][51] Hai năm sau đó, họ thành lập San Antonio, khu định cư dân sự đầu tiên của người Tây Ban Nha tại khu vực.[52]

Do các bộ lạc da đỏ có thái độ thù địch và khoảng cách xa từ các thuộc địa lân cận của Tây Ban Nha nên khiến những người định cư thoái chí trong việc chuyển đến khu vực. Đây là một trong các tỉnh ít dân cư nhất của Tân Tây Ban Nha.[53] Năm 1749, Hiệp ước hòa bình mà người Tây Ban Nha đạt được với người Lipan Apache[54] khiến nhiều bộ lạc tức giận, bao gồm Comanche, Tonkawa, và Hasinai.[55] Người Comanche ký một hiệp ước với Tây Ban Nha vào năm 1785[56] và sau đó giúp đỡ để đánh bại các bộ lạc Lipan Apache và Karankawa.[57][58] Với việc có nhiều đoàn truyền giáo được thành lập, các thầy tu chủ trì việc cải đạo hòa bình hầu hết các bộ lạc. Đến cuối thế kỷ XVIII, chỉ còn một vài bộ lạc du mục chưa cải sang Thiên Chúa giáo.[59]

Khi Hoa Kỳ mua Louisiana từ Pháp vào năm 1803, nhà cầm quyền Hoa Kỳ khẳng định rằng thỏa thuận cũng bao gồm cả Texas. Biên giới giữa Tân Tây Ban Nha và Hoa Kỳ cuối cùng được xác định tại sông Sabine vào năm 1819, tại nơi mà nay là biên giới giữa Texas và Louisiana.[60] Hăm hở với vùng đất mới, nhiều người định cư Hoa Kỳ từ chối công nhận thỏa thuận. Một số nhóm kẻ cướp phát triển thành các đội quân để xâm chiếm khu vực phía tây sông Sabine.[61] Năm 1821, Chiến tranh giành độc lập México kết thúc, lãnh thổ Texas trở thành một phần của México.[62] Do có số dân thấp, México xếp khu vực là một phần của tiểu bang Coahuila và Tejas.[63]

Hy vọng với việc có thêm người định cư sẽ giúp giảm bớt các vụ tấn công gần như liên miên của người Comanche, Texas thuộc México thực hiện tự do hóa các chính sách nhập cư bằng việc cấp phép cho những người nhập cư từ bên ngoài México và Tây Ban Nha.[64] Theo hệ thống nhập cư của México, các dải đất đai rộng lớn được giao cho các empresario, những người này sẽ tuyển mộ những người định cư đến từ Hoa Kỳ, châu Âu, và nội địa México.

Ngoài nhà Austin, có 23 empresario khác đưa những người định cư đến Texas, phần lớn trong số đó đến từ Hoa Kỳ.[65][66] Dân số Texas tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1825, Texas có khoảng 3.500 cư dân, hầu hết họ có nguồn gốc từ México.[67] Đến năm 1834, dân số Texas tăng lên khoảng 37.800 người, chỉ 7.800 người trong số đó có nguồn gốc México.[68]

Nhiều người nhập cư công khai xem thường luật pháp México, đặc biệt là luật cấm chế độ nô lệ. Cùng với đó là các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm giành được Texas, nhà cầm quyền México vào năm 1830 quyết định cấm việc tiếp tục nhập cư từ Hoa Kỳ.[69] Các luật mới cũng yêu cầu thuế quan bắt buộc, khiến các công dân México bản địa (Tejano) và những người mới nhập cư tức giận.[70]

Loạn Anahuac vào năm 1832 là cuộc nổi dậy công khai đầu tiên chống lại sự cai trị của México, trùng hợp với một cuộc nổi dậy chống tổng thống ở México.[71] Người Texas đứng về phe Liên bang chủ nghĩa, chống lại chính phủ hiện thời và đuổi toàn bộ binh sĩ México ra khỏi Đông Texas.[72] Họ nắm lấy cơ hội khoảng trống quyền lực để đấu tranh nhằm đạt được tự do hơn về chính trị. Người Texas tập hợp tại Hội nghị năm 1832 để thảo luận về yêu cầu được trở thành một tiểu bang riêng, cùng các vấn đề khác.[73] Năm sau đó, người Texas lặp lại đòi hỏi của họ trong Hội nghị năm 1833.

Cộng hòa

Cộng hòa Texas, màu vàng nhạt là vùng kiểm soát, màu xanh nhạt là vùng tuyên bố chủ quyền

Bên trong México, căng thẳng vẫn tiếp diễn giữa phe liên bang chủ nghĩa và phe trung ương tập quyền chủ nghĩa. Vào đầu năm 1835, những người Texas thận trọng đã thành lập nên Ủy ban Tương ứng và An toàn.[74] Tình trạng náo động bùng phát thành xung đột vũ trang vào cuối năm 1835 tại trận Gonzales.[75] Sự kiện này khởi đầu Cách mạng Texas, và trong vòng hai tháng sau đó, người Texas đánh bại tất cả các đội quân México tại khu vực.[76] Người Texas bầu ra các đại diện của Consultation, thể chế này lập nên một chính phủ lâm thời.[77] Chính phủ lâm thời sụp đổ nhanh chóng do đấu tranh nội bộ, và Texas lâm vào tình trạng không có sự quản lý toàn bộ trong hai tháng đầu năm 1836.[78][79]

Tổng thống México Antonio Lopez de Santa Anna đích thân dẫn một đội quân đi chấm dứt cuộc nổi dậy.[80] Đội quân viễn chinh México giành được thành công vào lúc đầu, Tướng Jose de Urrea đánh bại toàn bộ các nỗ lực kháng cự của người Texas dọc theo bờ biển mà đỉnh cao là cuộc tàn sát Goliad.[81] Các lực lượng của Santa Anna sau một cuộc bao vây kéo dài 13 ngày đã áp đảo quân phòng thủ Texas trong trận Alamo. Tin tức về các thất bại gây ra tâm trạng hoang mang trong những người định cư tại Texas.[82]

Các đại biểu người Texas mới được bầu cho Hội nghị 1836 nhanh chóng ký kết một bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2 tháng 3, thành lập nên Cộng hòa Texas. Sau khi bầu các quan chức lâm thời, Hội nghị giải tán.[83] Chính phủ mới liên hiệp với những người định cư khác tại Texas trong Runaway Scrape, chạy trốn khỏi đội quân México đang tiến đến.[82] Sau một vài tuần triệt thoái, Quân đội Texas dưới quyền chỉ huy của Sam Houston tiến công và đánh bại các lực lượng của Santa Anna trong trận San Jacinto.[84] Santa Anna bị bắt và buộc phải ký vào các Hiệp ước Velasco, kết thúc chiến tranh.[85]

Mặc dù giành thắng lợi trong cuộc chiến giành độc lập, song tại Texas lại nổ ra các trận chiến chính trị giữa hai phe. Phe dân tộc chủ nghĩa do Mirabeau B. Lamar lãnh đạo, chủ trương Texas tiếp tục độc lập, trục xuất người da đỏ, và mở rộng nước Cộng hòa về phía Thái Bình Dương. Các đối thủ của họ do Sam Houston lãnh đạo, chủ trương sáp nhập Texas và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và cùng tồn tại hòa bình với người da đỏ. Một tình tiết đặc trưng cho cuộc xung đột giữa hai phe được gọi là Chiến tranh Lưu trữ Texas.[86]

México tiến hành hai cuộc viễn chinh quy mô nhỏ nhằm vào Texas trong năm 1842. Đô thị San Antonio bị chiếm hai lần và người Texas bị đánh bại trong trận chiến gần Presidio San Antonio de Bexar. Mặc dù đạt được các thành công này, México không duy trì một lực lượng đồn trú tại Texas, và nước cộng hòa vẫn tồn tại.[87]

Trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ

Các đề xuất vào năm 1850 về đường biên giới phía tây bắc của Texas

Ngay từ năm 1837, nước Cộng hòa đã tiến hành một số nỗ lực nhằm thượng lượng về việc sáp nhập vào Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.[88] Sự phản đối bên trong nước cộng hòa đến từ phe dân tộc chủ nghĩa, cùng với phe phản đối phế nô mạnh mẽ tại Hoa Kỳ, khiến cho quá trình thu nhận Texas vào Liên bang bị chậm lại. Texas cuối cùng được sáp nhập vào Hoa Kỳ khi nhân vật bành trướng chủ nghĩa James K. Polk giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 1844.[89] Vào ngày 29 tháng 12 năm 1845, Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn việc Texas gia nhập vào Hợp chúng quốc Hoa Kỳ với địa vị là một tiểu bang cấu thành của Liên bang.[90]

Sau khi Hoa Kỳ thôn tính Texas, México đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ tuyên bố rằng biên giới của Texas kéo dài đến Rio Grande, México tuyên bố rằng đó là sông Nueces. Nước Cộng hòa Texas trước đó không thể quản lý biên giới mà mình tuyên bố, song Hoa Kỳ có sức mạnh quân sự và ý chí chính trị để thực hiện điều đó. Tổng thống Polk ra lệnh cho Tướng Zachary Taylor tiến về phía nam đến Rio Grande vào ngày 13 tháng 1 năm 1846. Một vài tháng sau, quân México tiến công một đội kỵ binh tuần tra của Hoa Kỳ ở khu vực tranh chấp, khởi đầu Chiến tranh Hoa Kỳ-México. Các trận đánh đầu tiên của cuộc chiến diễn ra trên đất Texas: bao vây Fort Texas, trận Palo Altotrận Resaca de la Palma. Sau các chiến thắng mang tính quyết định này, Hoa Kỳ xâm chiếm vào lãnh thổ México, kết thúc giao tranh tại Texas.[91]

Sau một loạt chiến thắng của Hoa Kỳ, Hiệp định Guadalupe Hidalgo kết thúc cuộc chiến kéo dài trong hai năm. Nhận được 18.250.000 Đô la Mỹ, México từ bỏ quyền kiểm soát Texas cho Hoa Kỳ, cắt nhượng Nhượng địa Mexico vào năm 1848, hầu hết lãnh thổ này nay được gọi là Tây Nam Hoa Kỳ, biên giới của Texas được xác định tại Rio Grande.[91]

Thỏa hiệp năm 1850 xác định biên giới của Texas như hiện nay. Texas nhượng lại tuyên bố chủ quyền của mình với vùng đất mà sau đó trở thành một nửa tiểu bang New México, một phần ba tiểu bang Colorado, và phần nhỏ của các tiểu bang Kansas, Oklahoma, và Wyoming cho chính phủ liên bang, đổi lại Texas được hủy 10 triệu đô la nợ của nước cộng hòa cũ.[12] Texas hậu chiến phát triển nhanh chóng khi những người di cư đổi xô đến các vùng đất trồng bông của bang.[92]

Nội chiến và tái thiết (1860–1900)

Đài kỷ niệm nội chiến tại Galveston, Texas.

Texas lại bước vào trong tình trạng chiến tranh sau cuộc bầu cử tổng thống năm 1860. Khi Abraham Lincoln đắc cử, Nam Carolina ly khai khỏi Liên bang. Năm tiểu bang khác ở vùng Hạ Nam cũng nhanh chóng làm theo Nam Carolina. Một hội nghị cấp tiểu bang nhằm suy xét đến việc ly khai được tổ chức tại Austin vào ngày 28 tháng 1 năm 1861. Vào ngày 1 tháng 2, với kết quả phiếu 166–8, Hội nghị thông qua một Sắc lệnh Ly khai khỏi Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Các cử tri Texas chấp thuận Sắc lệnh này vào ngày 23 tháng 2 năm 1861. Texas gia nhập vào Liên minh miền Nam Hoa Kỳ, phê chuẩn Hiến pháp thường trực của Liên minh quốc vào ngày 23 tháng 3 năm 1861.[33][93]

Ban đầu, không phải toàn bộ người dân Texas ủng hộ ly khai, song nhiều người ủng hộ sự nghiệp của miền Nam. Nhân vật liên bang chủ nghĩa nổi tiếng nhất của Texas là Thống đốc Sam Houston. Không muốn làm trầm trọng thêm tình hình, Sam Houston từ chối hai lời đề nghị của Tổng thống Lincoln trong việc đưa quân đội Liên bang đến để giúp ông duy trì địa vị, Sau khi từ chối tuyên thệ trung thành với Liên minh quốc, Sam Houston bị phế truất khỏi chức vụ Thống đốc.[94]

Mặc dù nằm cách xa các chiến trường chính trong Nội chiến Hoa Kỳ, song Texas đóng góp một lượng lớn binh lính và khí tài cho phần còn lại của Liên minh quốc.[95] Quân đội Liên bang từng chiếm được cảng chính của tiểu bang là Galveston trong một thời gian ngắn. Biên giới của Texas với México được gọi là "cửa sau của Liên minh" do hoạt động thương mại diễn ra trên biên giới, thoát khỏi sự phong toả của Liên bang.[96] Liên minh quốc đẩy lui tất cả các nỗ lực của Liên bang nhằm đóng cửa tuyến đường này,[95] song vai trò của Texas trong việc là một tiểu bang tiếp tế chấm dứt vào giữa năm 1863 sau khi Liên bang chiếm được sông Mississippi. Trận chiến cuối cùng của Nội chiến diễn ra tại Palmito Ranch ở gần Brownsville, Texas[97] với chiến thắng của Liên minh.

Texas rơi vào tình trạng hỗn loạn trong vòng hai tháng từ khi Quân đội Bắc Virginia đầu hàng đến khi tướng Liên bang Gordon Granger đảm đương quyền hành. Bạo lực diễn ra ở mức độ cao trong những tháng đầu của giai đoạn Tái thiết.[95] Tổng thống Johnson vào năm 1866 tuyên bố phục hồi chính phủ dân sự tại Texas.[98] Quốc hội Hoa Kỳ tái thu nhận Texas vào Liên bang năm 1870. Biến động xã hội tiếp diễn tại Texas khi tiểu bang này phải đối phó với các vấn đề nông nghiệp trì trệ và lao động.[99]

Từ thế kỷ XX đến nay

Spindletop, giếng dầu phun lớn đầu tiên

Năm 1900, Texas phải hứng chịu thiệt hại từ cơn bão Galveston, thiên tai gây tử vong nặng nề nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.[100] Ngày 10 tháng 1 năm 1901, phát hiện ra giếng dầu lớn đầu tiên tại Texas là Spindletop ở phía nam của Beaumont. Sau đó, người ta cũng phát hiện ra các mỏ dầu khác thuộc Đông Texas và Tây Texas, và bên dưới vịnh México. "Quả bom dầu" biến đổi Texas.[101] Sản xuất dầu rốt cuộc đạt mức trung bình 3 triệu thùng mỗi ngày vào thời điểm đỉnh cao năm 1972.[102]

Đại khủng hoảngDust Bowl giáng một đòn kép vào nền kinh tế của bang, vốn đã được cải thiện đáng kể từ sau Nội chiến. Những người di cư bị bỏ rơi ở những khu vực tồi tệ nhất của Texas trong những năm Dust Bowl. Đặc biệt là từ thời kỳ này trở đi, những người da đen rời khỏi Texas trong cuộc Đại di cư để đến làm việc tại miền Bắc Hoa Kỳ hay California và để thoát khỏi áp bức phân biệt chủng tộc.[103] Năm 1940, Texas có 74% cư dân là Anglo (người da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha), 14,4 cư dân là người da đen, và 11,5 cư dân là người nói tiếng Tây Ban Nha.[104]

Chiến tranh thế giới thứ hai có tác động đáng kể đến Texas, liên bang đổ tiền vào việc xây dựng các căn cứ quân sự, các nhà máy vũ khí, các trại giam giữ tù binh chiến tranh và viện quân y; 750.000 thanh niên ở lại phục vụ; các thành phố bùng nổ với ngành công nghiệp mới, các cơ sở bậc đại học nắm giữ các vai trò mới; và hàng trăm nghìn nông dân nghèo rời đi để tìm kiếm các công việc phục vụ chiến tranh với mức lương cao hơn, và họ không bao giờ còn quay trở lại làm nông nghiệp.[105][106] Texas chế tạo ra 3,1 phần trăm tổng số quân giới do Hoa Kỳ sản xuất trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xếp hạng thứ 11 trong số 48 tiểu bang đương thời.[107]

Texas tiến hành hiện đại hóa và mở rộng hệ thống giáo dục bậc đại học trong suốt thập niên 1960. Tiểu bang tạo lập nên một kế hoạch toàn diện cho giáo dục bậc đại học, kinh phí phần lớn lấy từ thu nhập từ dầu, và một bộ máy trung ương cấp tiểu bang được sắp xếp nhằm quản lý các thể chế nhà nước hiệu quả hơn. Các thay đổi này giúp các trường đại học của Texas nhận được kinh phí nghiên cứu của liên bang.[108]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Texas http://alltaxtips.com/why-does-texas-taxus-have-th... http://www.bartleby.com/43/42.html http://www.bellhelicopter.com/en/company/ http://www.boston.com/news/globe/ideas/articles/20... http://www.cbsnews.com/stories/2008/01/16/tech/mai... http://www.chron.com/disp/story.mpl/metropolitan/7... http://money.cnn.com/magazines/fortune/fortune500/... http://money.cnn.com/magazines/fortune/fortune500/... http://money.cnn.com/magazines/fortune/fortune500/... http://www.cnn.com/2011/US/07/05/texas.colonias/in...